Nếu ai có dịp lên Hà Giang một lần vào thăm bản người Mông, chắc chắn sẽ có cơ hội được nghe những tiếng khèn náo nức, nhộn nhịp cả một vùng trời yên ả. Đối với người Mông chiếc khèn là nhạc cụ được gắn liền với đời sống sinh hoạt của họ, một trong những giá trị văn hoá dân gian truyền thống. Trong những ngôi nhà gỗ của đồng bào Mông nơi đây, chiếc khèn luôn được đặt ở vị trí trang trọng nhất.
Làm được một chiếc khèn đòi hỏi phải lựa chọn được vật liệu tốt, vật liệu để làm khèn chủ yếu là tre và gỗ. Thân khèn được làm bằng gỗ thông hoặc gỗ xoan, việc lựa chọn loại gỗ có độ săn chắc từ những loại cây mọc ở nơi đất xấu thì khèn mới bền, ít bị nứt, hỏng. Người ta bổ khối gỗ ra làm 2 phần, khoét rỗng bên trong, họ sẽ ghép lại 2 miếng gỗ lại sao cho tạo được thân khèn. Cấu tạo thân khèn gồm có: ống thổi ( được bịt bằng sắt hoặc đồng), bầu khèn ( là một bầu rỗng, nơi chứa các ống khèn); và chân khèn.
Nghệ nhân sẽ ghép và cố định 2 mảnh gỗ bằng vỏ cây, ngày nay nghệ nhân có thể dùng dây nhựa cố định thân khèn, để thân khèn và bầu khèn chắc chắn nghệ nhân sẽ dùng những chiếc đinh rất nhỏ đóng vào bầu khèn.
Người ta cắt 6 ống tre, có độ dài ngắn khác nhau, đó chính là công cụ tạo lên các âm điệu trầm, bổng của chiếc khèn. Ống khèn được làm từ một loại tre (người Mông gọi chung các loại cây họ tre đều là cây tre); loại tre này có đặc điểm ống nhỏ, vỏ dày, chắc chắn.
Nghệ nhân xác định độ dài các ống khèn một phần dựa vào kinh nghiệm bản thân, theo ông Hoàng A Giáo, xã Bản Mế cho biết: Sử dụng đơn vị là độ rộng của các ngón tay, lòng bàn tay để xác định độ dài các ống khèn. Lắp ống khèn vào thân khèn để tạo lỗ khèn, lỗ khèn được tạo sao cho vừa tay người thổi, dùng dao nhọn chọc tạo lỗ khèn và dùng một thanh sắt tròn đều nung trong lửa nóng để đục tạo lỗ
Tạo lưỡi gà cho các ống khèn: Lưỡi gà làm bằng đồng được dát mảnh sẽ tạo ra được âm vang xa; riêng ống tre to nhất nghệ nhân sẽ đặt 2 lưỡi gà. Cách đặt lưỡi gà vào bầu khèn có chiều hướng vào phía trong của bầu.
Sau khi hoàn tất việc lắp ống khèn vào bầu khèn, nghệ nhân dùng vỏ cây hoặc dây nhựa có chiều rộng khoảng 1-1.5cm bó các ống khèn lại vừa có tác dụng trang trí, vừa cố định ống khèn.
Cắt lưỡi gà là một kỹ thuật rất khó, phải dựa vào kinh nghiệm làm nghề, sau khi lưỡi gà lắp vào ống khèn,nghệ nhân phải thổi kiểm tra âm vực nhiều lần đến khi đạt tiêu chuẩn thì ống khèn mới được lắp vào thân khèn.
Những động tác mùa khèn của người Mông cũng rất đa dạng và phong phú: Múa quay đổi chỗ, vờn khèn, lăn nghiêng, múa nhảy đưa chân … Những tiếng khèn ngân vang kết hợp với những điệu múa của các cô gái đã cho một khoảng trời trở lên bừng sáng và nhộn nhịp hơn bao giờ hết.
Con trai Mông thường bắt đầu học thổi khèn từ khi lên 7 – 8 tuổi. Để biết thổi thì ai cũng có thể làm được, nhưng quan trọng là để thổi được thành bài, thành điệu thì người thổi phải có một trí nhớ thật tốt. Cho lên chàng trai nào có thể thành thạo để thổi những bài nhạc hay thì đó được coi là một niềm kiêu hãnh.
Tiếng khèn của người Mông luôn mạnh mẽ kiên cường như chính họ vậy. Những người già nơi đây vẫn thường bảo rằng: Tiếng khèn là phần hồn của người Mông, giữ tiếng khèn là giữ lấy bản sắc dân tộc mình.
Dân tộc Mông thường có câu: “ Người biết thổi khèn thì được uống rượu”, qua đó cũng cho ta biết được vị thế của chiếc khèn trong đời sống của người đàn ông Mông. Nếu ai thổi khèn hay, múa khèn dẻo thì sẽ luôn nhận được sự yêu mến và nể phục. Qua tiếng khèn hay cách thổi khèn mà cho ta thấy được những chàng trai đó có sức mạnh về thể chất cũng như thể hiện được người con trai đó có đời sống tinh thần khá mạnh mẽ. Do vậy đi đâu người Mông cũng tự hào chiếc khèn một văn hoá truyền thống độc đáo của dân tộc mình.
Tiếng khèn như chứa đựng cả những tâm tư tình cảm của người thổi, mỗi khi buồn hay vui tất cả đều được hoà chung với những giai điệu trầm bổng, dặt dìu. Vào những dịp lễ, tết tiếng khèn của người Mông lại vang vọng khắp núi rừng Tây Bắc.
Trước đây, nhiều người vẫn thường lầm tưởng đàn ông Mông thổi khèn để tỏ tình, để tìm kiếm bạn đời, nhưng thật ra lại không phải như vậy. Tiếng Khèn của người Mông thường được sử dụng trong hai trường hợp: trong những dịp vui chơi để thi thố tài nghệ, bộc lộ ý chí của con người trong sinh hoạt công đồng, thường diễn ra trong đám tang để để tỏ lòng thương xót, luyến tiếc đối với người quá cố.
Những âm thanh của chiếc khèn mang trong mình vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao, thể hiện được chất đằm thắm, mượt mà, tươi sáng và giản dị của tâm hồn người Mông. Vì vậy tiếng khèn nơi đây đã chiếm được hết tình cảm của người dân mà còn làm say lòng những ai đã từng một lần thưởng thức.
Nhạc cụ dân tộc Mông nói chung, chiếc khèn nói riêng thể hiện sâu nặng chất trữ tình đằm thắm, mượt mà, khoẻ khoắn. Những âm thanh của chiếc khèn mang vẻ đẹp tự nhiên của vùng cao bao la, hùng vĩ, nét tươi sáng và giản dị của tâm hồn người Mông. Chính vì thế, tiếng khèn không những chiếm được cảm tình của hầu hết đồng bào Mông, mà còn làm say lòng những ai một lần được thưởng thức.